SURVEY OF DISEASE MODEL AT TRA VINH UNIVERSITY GENERAL CLINIC
Abstract
The study is to identify disease model and relevant factors at the General Clinic of Tra Vinh University (GC-TVU). A crosssectional survey of 42.884 patients who underwent medical treatment at GC-TVU from August 2016 to August 2017. The results showed that non-infectious diseases accounted for 62,4%, two times higher than that of infectious diseases (30,9%) and more than 9 times as compared with the trauma group, accident, poisoning (6,8%). The high rate of mental illness included 21,1% mental disorders, 19.8% infections and parasites, and 15,8% circulatory disease. The most common diseases are high blood pressure 11,4%, muscle pain 6,4%, back pain 5,9%, diabetes mellitus 3,7% and gastric inflammation 3,2%. The disease structure is closely related to age, sex and area
of living. This result is the basis for investing infrastructure and faculties and training of human resources in order to meet people’s needs and to improve the quality of health care routes.
Downloads
References
tích tình hình sức khỏe bệnh tật của Việt Nam trong
thời kì đổi mới. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí
Minh. 2000;1(4):8–12.
[2] Bộ Y tế. Báo cáo Y tế Việt Nam. Hà Nội; 2006.
[3] Bộ Y tế. Niên giám thống kê. Hà Nội; 2007.
[4] Bộ Y tế. Báo cáo chung tổng quan ngành y tế Việt
Nam năm 2015. Hà Nội: Nhà Xuất bản Y học; 2015.
[5] Huỳnh Tấn Đô. Nghiên cứu mô hình bệnh tật điều trị
nội trú tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Trà Vinh từ năm
2014 - 2015 [Luận văn tốt nghiệp Cử nhân]; 2017.
Trường Đại học Trà Vinh.
[6] Nguyễn Trọng Bài, Bùi Văn Chín. Nghiên cứu mô hình
bệnh tật Bệnh viện đa khoa huyện Thới Bình trong
4 năm 2006- 2009 [Luận án chuyên Khoa II]; 2010.
Trường Đại học Y Dược Huế.
[7] Phan Văn Lình, Phạm Thị Tâm. Nghiên cứu mô hình
bệnh tật tại các bệnh viện tỉnh Vĩnh Long trong 5 năm
từ 2010 đến 2014. Tạp chí Y Dược học Cần Thơ.
2017;9:14–20.
[8] Phạm Thị Tâm, Bùi Quang Nghĩa. Nghiên cứu mô
hình bệnh tật tại các trạm y tế xã phường tỉnh Vĩnh
Long năm 2014. Tạp chí Y Dược học Cần Thơ. 2017;9:
28–34.